Thuế suất thuế GTGT nhà thầu đối với hoạt động phân phối các kênh truyền hình được xác định như thế nào?

Thuế suất thuế GTGT nhà thầu đối với hoạt động phân phối các kênh truyền hình được xác định như thế nào?

Thuế suất thuế GTGT nhà thầu đối với hoạt động phân phối các kênh truyền hình được xác định như thế nào?

Ngày đăng: 15/06/2020

Tại công văn số 586/TCT-CS ngày 24 tháng 02 năm 2017 về thuế GTGT nhà thầu đối với hoạt động phân phối các kênh và nội dung các kênh truyền hình trên lãnh thổ Việt Nam của Tổng cục Thuế hướng dẫn:

 Thuế suất thuế GTGT nhà thầu đối với hoạt động phân phối các kênh truyền hình được xác định như thế nào? 

 

 Tại công văn số 586/TCT-CS ngày 24 tháng 02 năm 2017 về thuế GTGT nhà thầu đối với hoạt động phân phối các kênh và nội dung các kênh truyền hình trên lãnh thổ Việt Nam của Tổng cục Thuế hướng dẫn:
Căn cứ Luật sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 ngày 29/11/2005 (đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 36/2009/QH13 ngày 19/6/2009); Luật Khoa học và Công nghệ số 29/2013/QH13 ngày 18/6/2013 và ý kiến của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tại công văn số 5277/BVHTTDL-KHTC ngày 22/12/2016; ý kiến của Bộ Khoa học và Công nghệ tại công văn số 75/BKHCN-TC ngày 10/01/2017.

Căn cứ Điều 11 Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính.
Căn cứ khoản 2, Điều 12 Thông tư số 60/2012/TT-BTC ngày 12/4/2012 của Bộ Tài chính.
Căn cứ khoản 2, Điều 12 Thông tư số 103/2014/TT-BTC ngày 06/8/2014 của Bộ Tài chính.

 

Theo nội dung hợp đồng lập ngày 27/3/2014 giữa Công ty VNM (bên A-bên Việt Nam) và Công ty Satellite Television Asian Region Limited (bên B-bên nước ngoài) thì bên B cấp cho bên A quyền phân phối (nhưng không độc quyền) các kênh và nội dung các kênh truyền hình thuộc quyền sở hữu của bên B cho các khách hàng và các nhà phân phối thứ cấp trên lãnh thổ Việt Nam trong một thời hạn quy định tại hợp đồng. Hàng tháng, hàng quý hoặc hàng năm, bên A phải trả phí bản quyền phát sóng các kênh truyền hình cho bên B theo thỏa thuận giữa hai bên.

 

Căn cứ các quy định trên thì hoạt động chuyển nhượng phân phối các kênh và nội dung các kênh truyền hình trong một thời gian ngắn nhất định không phải là hoạt động cung cấp dịch vụ khoa học và công nghệ liên quan đến sở hữu trí tuệ (thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Khoa học và Công nghệ không phải là hoạt động chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ mà là hoạt động chuyển nhượng quyền sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ nên thuộc đối tượng chịu thuế GTGT với thuế suất là 10% và tỷ lệ (%) GTGT tính trên doanh thu tính thuế áp dụng đối với ngành kinh doanh dịch vụ là 50% (nếu áp dụng theo Thông tư số 60/2012/TT-BTC nêu trên) hoặc tỷ lệ % thuế GTGT tính trên doanh thu tính thuế là 5% (nếu áp dụng theo Thông tư số 103/2014/TT-BTC nêu trên).

 

Xem chi tiết công văn số 586/TCT-CS tại: http://www.thtax.vn/…/Ve-thue-GTGT-nha-thau-doi-voi-hoat-do…